Mục lục

1. Hủ nữ xuyên tiên hiệp

Chương 1

Chương 2

Chương 3

Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

Thừa kế theo pháp luật theo quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 - lớn



MỞ ĐẦU
Thừa kế, hiểu một cách đơn giản là sự dịch chuyển tài sản của người đã chết sang cho người còn sống khác. Pháp luật thừa kế đã có từ xa xưa và gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Nó điều chỉnh quan hệ tài sản ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của mối quốc gia. Tuy có những đặc thù riêng nhưng dân tộc nào, đất nước nào, công dân nào cũng đều chịu sự tác động của pháp luật thừa kế. Mỗi Nhà nước dù có các xu thế chính trị khác nhau song đều coi thừa kế là một quyền cơ bản của công dân và ghi nhận nó trong Hiến pháp. Ở Việt Nam, chế định về quyền thừa kế cũng là một chế định quan trọng trong Bộ luật dân sự 2005.
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do đó, đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ làm giảm đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có. Chính vì vậy phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo quy định của pháp luật. Cho nên, việc nghiên cứu và hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề thừa kế theo pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các nhà làm luật Việt Nam, nhất là trong Bộ luật dân sự 2005.


NỘI DUNG
I. Khái niệm và cơ sở lí luận của việc thừa kế theo pháp luật
1.     Khái niệm thừa kế theo pháp luật
Điều 674 Bộ luật dân sự quy định: Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
Nói cách khác, thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho những người còn sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do Nhà nước quy định chứ không do ý chí cá nhân của người để lại di sản định đoạt, tức là thừa kế không theo di chúc.
Mỗi cá nhân có quyền sở hữu đối với tài sản của mình, sau khi chết, số tài sản ấy sẽ được chia đều cho những người thừa kế hợp pháp của họ. người thừa kế theo pháp luật là những người có một trong ba mối quan hệ với người để lại di sản: quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng. Những người này được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, tức là họ bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế của người chết, cũng như thực hiện nghĩa vụ mà người chết chưa thực hiện trong phạm vi di sản được nhận.
Bởi lẽ phạm vi những người thừa kế rất rộng, do đó pháp luật đã quy định nhiều hàng thừa kế một cách hợp lí.
2.     Các trường hợp thừa kế theo pháp luật
Điều 675 BLDS quy định:
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.
Cụ thể như sau:
·        Trường hợp người chết không để lại di chúc hoặc có để lại nhưng di chúc không hợp pháp: Di chúc không hợp pháp là di chúc đã vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của di chúc (được quy định một phần tại điều 652 BLDS). Các trường hợp đó bao gồm: di chúc được lập trái với ý chí của người lập do bị lừa dối, dọa nạt hay áp đặt ý chí của người khác; di chúc lập cho một người không có thực hoặc không xác định được người đó là ai hoặc di chúc chỉ định cho người được sinh ra trong tương lai nhưng người đó chưa thành thai khi người lập di chúc còn sống; di chúc do người dưới 15 tuổi hoặc do người không có năng lực hành vi dân sự lập ra; di chúc có nội dung trái pháp luật, xâm hại lợi ích chính đáng của người khác, của Nhà nước, của xã hội… Ví dụ: Ông A có ba người con thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ nhất là B, C, D. Trước khi chết ông A lập di chúc để định đoạt tài sản của ông (trị giá 785 triệu đồng) như sau: cho M bạn thân của ông hưởng số tài sản trị giá 20 triệu, cho B, C, D mỗi người hưởng 250 triệu. Còn 15 triệu đồng cho ông H hưởng với điều kiện là H phải gây thương tích nặng cho K (là người mà ông có hận thù lúc còn sống). Trong di chúc nói trên ông A định đoạt 15 triệu cho H là bất hợp pháp nên 15 triệu đó được chia cho những người thừa kế theo luật. Vì vậy, vụ thừa kế trên được giải quyết như sau: M = 20 triệu, B = 255 triệu, C = 255 triệu, D = 255 triệu.
·        Trường hợp những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế: Thừa kế là quan hệ pháp luật dân sự, do đó ý chí của chủ thể trong quan hệ phải được thể hiện trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Song nếu người thừa kế đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản, chủ thể đã chết thì sẽ không còn bất kì quan hệ nào liên quan dến người đó trong hiện tại, và vì thế phần di chúc liên quan đến phần di sản người đó được nhận bị vô hiệu. Phần di sản này sẽ được phân chia theo pháp luật. Ví dụ: Ông A khi còn sống lập di chúc để lại cho 3 người con là N, M, P 900 triệu đồng, N, M, P được chia mỗi người 300 triệu đồng. Song sau  đó ông A và P đi du lịch bị tai nạn giao thông và chết cùng một lúc, lúc này phần di chúc của ông A liên quan đến P vô hiệu.
·        Trường hợp những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản: Cá nhân được chỉ định thừa kế theo di chúc nhưng bị tước quyền hưởng di sản do đã có các hành vi theo quy định tại khoản 1 điều 643 BLDS mà không phải là người được thừa kế theo di chúc được quy định tại khoản 2 điều này. Nghĩa là người lập di chúc đã chỉ định cho một người được hưởng di sản nhưng sau đó người này đã bị kết án về một trong các hành vi ở khoản 1 điều 643 và người để lại di sản đã biết hành vi của người này nhưng không lập lại di chúc cho người này hưởng. Theo quy định tại khoản 2 điều 643 BLDS, di chúc phải được lập sau thời điểm người thừa kế trong di chúc đã bị kết án về một trong các hành vi theo quy định tại khoản 1. Ví dụ: Bà B lập di chúc để lại di sản là 200 triệu đồng chia đều cho chồng và 2 người con. Khi còn sống bà thường bị chồng bà là ông A đánh đập, hành hạ. Ông A đã từng bị truy cứu hình sự về tội cố ý gây thương tích cho bà B với tỉ lệ thương tật là 15%. Tuy nhiên do nghĩ đến tình cảm vợ chồng nên trước khi chết bà lập di chúc miệng yêu cầu hai người con cho ông A được hưởng 1/3 di sản. Vì thế ông A vẫn được hưởng phần di sản của mình.
Còn trong trường hợp người được chỉ định là người thừa kế theo di chúc nhưng từ chối quyền nhận di sản thì phần di chúc liên quan đến di sản mà người đó từ chối hưởng sẽ vô hiệu, phần di sản này được phần chia theo pháp luật. Điều này có thể là do người đó cũng đồng thời là người thừa kế theo pháp luật với những người khác và thấy cần thiết phải từ chối quyền nhận di sản theo di chúc để cùng hưởng di sản được phân chia theo pháp luật cùng những người thừa kế khác. Hoặc người từ chối quyền này cũng có thể không muốn nhận di sản thừa kế do có nguyên nhân nào đó hay do có vấn đề tế nhị không nói ra. Tất nhiên, hiếm hoi hơn, rất có thể người này từ chối thừa kế để giúp tăng phần thừa kế của những người được hưởng di sản theo pháp luật. Ví dụ: anh A là con ngoài giá thú của ông X và chị M trong thời gian kết hôn của ông X và bà Y. Biết bà Y hay ghen nên ông X không hề cho ai biết về sự tồn tại của A. Tuy vậy trong di chúc của mình ông vẫn đề cập đến anh A và cho anh hưởng 1/2 di sản vì bà Y không có con. Do bà Y phản đối dữ dội nên sau khi ông X chết anh A đã từ chối thừa kế phần di sản của mình. Song anh vẫn được nhận 1/2 di sản của ông X do anh là người thừa kế còn sống ở hàng thừa kế thứ nhất của ông X.
·        Theo quy định tại khoản 2 điều 675 BLDS, thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng với các phần di sản sau: Phần di sản không được định đoạt trong di chúc, phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật, phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản hay chết trước hoặc cùng lúc với người lập di chúc, liên quan đến cơ quan tổ chức được hưởng di sản theo di chúc song không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Xác định những trường hợp thừa kế theo pháp luật là việc quan trọng trong việc bảo vệ cho những người có quyền thừa kế theo pháp luật. Đây là cơ sở đề xác định những người được hưởng di sản thừa kế, những người không được và đảm bảo quyền lợi của các chủ thể trong quan hệ thừa kế cũng như ngăn chặn các hành vi trái pháp luật lợi dụng sự kiện chết của một người đề nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái phép.
II. Diện và hàng thừa kế theo pháp luật hiện hành
1.     Diện thừa kế theo pháp luật
Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế, song vấn đề này lại chưa được các nhà làm luật quy định cụ thể và chi tiết trong luật. Nó chỉ được quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lí. Còn trong các bộ luật thực định vẫn chưa có văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề này. BLDS 1995 hay BLDS 2005 cũng đều chưa có nội dung cụ thể quy định về khái niệm diện thừa kế và diện thừa kế gồm những ai mặc dù đã có quy định cụ thể về hàng thừa kế. Do đó đây là một vấn đề cần phải được khắc phục trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Diện những người thừa kế là phạm vi những người hưởng di sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật. Về diện thừa kế, qua các chế độ xã hội đều có một đặc điểm chung là: chủ yếu do quan hệ hôn nhân và gia đình chi phối, đồng thời tùy thuộc vào quan hệ sản xuất của từng giai đoạn phát triển của xã hội và dựa trên những quy định của pháp luật của mỗi một chế độ, xã hội nhất định mà phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật được quy định ở diện rộng hẹp, khác nhau. Phạm vi những người thừa kế theo pháp luật theo quy định của pháp luật thừa kế hiện hành cũng dựa trên quan điểm mang tính chất truyền thống về gia đình Việt Nam. Song có thể nói lợi ích của những người thừa kế theo pháp luật luôn được pháp luật nước ta bảo đảm và thực hiện trong mối quan hệ với lợi ích của toàn xã hội, khi mà trong giai đoạn hiện nay tài sản của tư nhân ngày càng phong phú về chủng loại và không hạn chế về số lượng.
 Diện những người thừa kế được pháp luật quy định dựa trên ba mối quan hệ với người để lại di sản: Quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng. Quan hệ hôn nhân xuất phát từ việc kết hôn giữa vợ và chồng. Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cùng dòng máu do sự kiện sinh ra cùng một gốc ông tổ (cụ với ông, bà; ông, bà với cha, mẹ; cha mẹ với các con; anh chị em cùng cha cùng mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha…). Quan hệ nuôi dưỡng  xuất phát từ sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau giữa những người không cùng huyết thống hay không có quan hệ hôn nhân (cha mẹ nhận nuôi con nuôi) đựơc pháp luật thừa nhận.
Ba mối quan hệ này chỉ là căn cứ xác định phạm vi những người thừa kế theo luật. Phạm vi những người có quan hệ huyết thống gần và xa (theo đời và theo thứ bậc trên dưới) với người để lại di sản có thuộc diện thừa kế hay không còn tùy thuộc vào những quy định cùa pháp luật trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Như đã nói ở trên, diện thừa kế theo pháp luật được xác định dựa vào 3 mối quan hệ: hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Đối với quan hệ hôn nhân, căn cứ này dựa trên sự tồn tại hợp pháp của hôn nhân cho đến thời điểm mở thừa kế. Đây cũng là căn cứ xác định quan hệ huyết thống với cha, mẹ của người con.
Quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ vợ chồng tuân thủ những quy định của pháp luật hôn nhân về độ tuổi kết hôn, ý chí tự do tự nguyện trong kết hôn, không có sự áp đặt hay thỏa thuận, không vi phạm chế độ một vợ một chồng, không vi phạm quan hệ huyết thống cũng như các điều cấm khác của pháp luật trong kết hôn. Sự thừa nhận của pháp luật đối với cuộc hôn nhân là cơ sở để bảo vệ cho các quyền lợi chính đáng của vợ chồng  trong mối quan hệ tài sản chung, trong nghĩa vụ với con cái, trong nghĩa vụ của vợ chồng với nhau và trong quan hệ với người thứ ba. Quan hệ này cũng là cơ sở để xác định chủ thể trong quan hệ sở hữu về tài sản, về nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự mà vợ chồng có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó, nhất là trong quan hệ thừa kế của nhau khi một trong hai người chết trước.
Tất nhiên cũng sẽ có những ngoại lệ được quy định bởi những điều kiện của lịch sử. Những người có nhiều vợ ở miền Bắc trước ngày ban hành luật hôn nhân và gia đình (13/1/1960) thì được coi là không vi phạm pháp luật. Tương tự ở miền Nam, một người có nhiều vợ trước ngày 25/3/1977 (ngày công bố danh mục VBPL được áp dụng thống nhất trong cả nước) cũng không được coi là vi phạm pháp luật. Và còn có những trường hợp khác… Nhằm giải quyết dứt điểm chúng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 quy định chi tiết về việc kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình.
Đối với quan hệ huyết thống, pháp luật về hôn nhân và gia đình bảo vệ lợi ích chính đáng của những người con trong quan hệ huyết thống với cha mẹ và nghĩa vụ của người làm cha, làm mẹ với con. Trong thực tiễn hoạt động của tòa án còn có những vụ việc liên quan đến việc xác định huyết thống hay xác định con ngoài giá thú… để bảo vệ những quyền lợi tài sản và nhân thân cho cá nhân theo đúng các đạo lí của đời sống xã hội.
Đối với quan hệ nuôi dưỡng, mối quan hệ giữa cha mẹ và các con, anh chị em ruột với nhau khi cha mẹ không còn hay không có khả năng lao động, giữa ông bà nội ngoại và các cháu nội, ngoại, giữa cha dượng, mẹ kế với con riêng của vợ, chồng, con nuôi và cha mẹ nuôi… đều nằm trong quan hệ nuôi dưỡng, không tách rời nghĩa vụ nuôi dưỡng lẫn nhau. Nghĩa vụ này là cơ sở bền vững nhất trong việc giứ gìn an ninh và sự bình ổn trong gia đình và toàn xã hội.
Phạm vi những người thừa kế theo pháp luật được xác định theo 3 mối quan hệ ở trên. Chúng có tính độc lập tương đối, và quan hệ này là tiền đề cho quan hệ kia. Từng quan hệ được xác định theo quy định của pháp luật giữa người để lại di sản vói người thừa kế.
2.     Hàng thừa kế theo pháp luật
Sau khi đã xác định phạm vi những người có quyền thừa kế theo pháp luật dựa trên ba mối quan hệ giữa người thuộc diện thừa kế với người để lại di sản, tiếp theo là xác định cụ thể những đối tượng được hưởng di sản. Theo quy định của pháp luật, không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật đều được hưởng di sản mà người được nhận di sản thừa kế còn phụ thuộc vào vị trí hàng thừa kế.
 Những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật hưởng di sản theo trình tự trước, sau theo căn cứ vào mức độ gần gũi giữa họ với người chết. Pháp luật về thừa kế đã xếp những người đó theo từng nhóm khác nhau. Mỗi một nhóm đó được gọi là một hàng thừa kế theo pháp luật. Như vậy, hàng thừa kế là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng được hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại. Theo quy định tại điều 676 BLDS thì:
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Cụ thể như sau:
·        Đối với trường hợp hàng thừa kế thứ nhất: Cơ sở xác định những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất dựa trên cả ba mối quan hệ là quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng. Trong đó, những người thuộc bề trên gồm: cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế (điều 679 BLDS); ngang bậc gồm: vợ, chồng và bề dưới gồm: các con. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất này có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau và là đại diện đương nhiên của nhau theo BLDS năm 2005 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Nếu họ vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và BLDS thì họ bị tước quyền thừa kế theo khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005. Tuy nhiên, chúng ta cần phải chú ý một số điểm sau: Thứ nhất, vợ hay chồng nói ở trên phải là vợ, chồng của hôn nhân hợp pháp hoặc hôn nhân thực tế. Nếu một người có nhiều vợ (chồng) trước ngày 13/1/1960 (ở miền Bắc) và trước ngày 25/3/1977 (ở miền Nam) thì tất cả các người vợ đều được thừa kế ở hàng thứ nhất và người chồng được thừa kế của tất cả các người vợ. Trường hợp vợ (chồng) đã chia tài sản chung, sống ly thân nhưng chưa ly hôn; đã ly hôn nhưng bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định ly hôn chưa được thi hành; người đã kết hôn với người khác sau thời điểm mở thừa kế vẫn được thừa kế di sản (điều 680 BLDS). Thứ hai, một người sinh ra bao nhiêu người con đều là con đẻ của người đó và được hưởng ở hàng thừa kế thứ nhất. Con nuôi được thừa kế của cả cha mẹ đẻ lẫn cha mẹ nuôi và cha mẹ được thừa kế của cả con đẻ lẫn con nuôi. Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng như cha con, mẹ con được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế theo quy định về thừa kế theo pháp luật và thừa kế thế vị.
·        Đối với trường hợp hàng thừa kế thứ hai: Những người thuộc hàng thừa kế thứ hai cũng được xét trên mối quan hệ nuôi dưỡng, quan hệ huyết thống và là đại diện đương nhiên của nhau. Trong đó, những người thuộc bề trên gồm: ông bà nội, ông bà ngoại; ngang bậc gồm: anh, chị, em ruột và bề dưới gồm các cháu. Những người này sẽ được ưu tiên hưởng di sản theo pháp luật khi không có ai nhận thừa kế theo thứ tự ở hàng thừa kế thứ nhất. Chúng ta cũng cần chú ý: Thứ nhất, con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha mẹ của người nuôi dưỡng. Khi ông, bà chết chỉ có cháu ruột mới được thừa kế di sản của ông, bà ở hàng thừa kế thứ hai và ngược lại. Tuy nhiên, nếu ông, bà là cha, mẹ nuôi của cha, mẹ đẻ người chết thì ông, bà vẫn là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai của người đó. Nếu người chết là con nuôi của con đẻ hay con nuôi của ông, bà thì ông, bà không đương nhiên là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai của người chết. Thứ hai, con riêng của vợ và của chồng không phải là anh chị em ruột của nhau. Một người sinh ra bao nhiêu người con thì tất cả những người con đó đương nhiên là anh chị em ruột của nhau. Con nuôi của một người không đương nhiên trở thành anh chị em ruột của con đẻ người đó.
·        Đối với trường hợp hàng thừa kế thứ ba: Những người ở hàng này được xét chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống. Những người này sẽ được ưu tiên hưởng di sản theo pháp luật khi không có ai nhận thừa kế theo thứ tự ở hàng thừa kế thứ hai.
Trình tự ưu tiên hưởng di sản phải theo quy luật sắp xếp thứ tự các hàng. Trước hết những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất sẽ được ưu tiên hàng đầu bởi giữa họ có mối quan hệ thân thuộc, thiêng liêng và gần gũi nhất. Hàng thừa kế thứ nhất được xác định trên cả ba mối quan hệ: quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng. Tuy nhiên, những người này sẽ không được hưởng di sản nếu vi phạm khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 hoặc bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Và lúc này, ngoài những người trên, không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất thì những người ở hàng thừa kế thứ hai sẽ được ưu tiên hưởng di sản. Hàng thừa kế thứ ba cũng vậy, sẽ được nhận di sản nếu không còn ai ở hàng thừa kế thứ hai. Về nguyên tắc, những cá nhân thuộc hàng thừa kế được hưởng phần di sản ngang nhau (khoản 2 điều 676). Thứ tự ưu tiên hưởng di sản theo hàng là thứ tự tuyệt đối. Không bao giờ có trường hợp hai cá nhân thuộc hai thừa kế khác nhau cùng hưởng di sản theo quy định của pháp luật, những cá nhân từ chối nhận di sản một cách hợp pháp thì không được hưởng thừa kế theo hàng. Như vậy, thứ tự ưu tiên ở ba hàng thừa kế là tuyệt đối. Cách chỉ định những người thuộc các hàng thừa kế là do pháp luật quy định.
III. Thừa kế thế vị
Thừa kế thế vị là một trường hợp đặc biệt của thừa kế theo pháp luật. Theo nguyên tắc chung, người thừa kế là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Nhưng pháp luật thừa kế nước ta còn quy định trường hợp khi con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản thì cháu của người đó được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu được hưởng nếu còn sống. Nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng khi còn sống. Những trường hợp này được gọi là thừa kế thế vị. Ngoài ra, pháp luật còn quy định trường hợp: nếu cha hoặc mẹ chết cùng thời điểm với ông bà thì cháu thay thế cha hoặc mẹ nhận di sản của ông, bà (điều 677 BLDS). Trường hợp thừa kế thế vị được quy định tại điều 677 BLDS 2005 đã giải quyết thỏa đáng quyền thừa kế thế vị của các cháu nội ngoại, chắt nội ngoại trong trường hợp cha mẹ của cháu hoặc chắt chết trước hoặc cùng một thời điểm với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại hoặc các cụ nội, cụ ngoại. Lẽ dĩ nhiên cháu hoặc chắt phải còn sống vào thời điểm ông, bà hoặc cụ chết thì mới là người thừa kế thế vị tài sản của ông bà hoặc cụ.
Quan hệ thừa kế theo hàng nói chung và quan hệ thừa kế thế vị nói riêng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Quan hệ thừa kế thế vị không phải là quan hệ thừa kế theo trình tự hàng nhưng hàng thừa kế là căn cứ để xác định quan hệ thừa kế thế vị trong trường hợp con của người để lại di sản là người được hưởng thừa kế theo hàng nhưng đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Tất nhiên những người thừa kế thế vị chỉ được hưởng chung một suất thừa kế được chia theo pháp luật mà người được hưởng thừa kế theo hàng được hưởng nếu còn sống nhưng đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản.
Thừa kế thế vị chỉ phát sinh trên cơ sở thừa kế theo pháp luật, không phát sinh từ căn cứ di chúc. Bởi vì người thừa kế theo di chúc ở đây đã chết trước hoặc chết cùng lúc với người để lại di sản theo di chúc cho nên phần di chúc đó vô hiệu. Trường hợp này có tác dụng bảo vệ quyền hưởng di sản của các cháu, chắt của người để lại di sản một cách trực tiếp nhất, tránh tình trạng di sản của ông bà, của cụ mà các cháu, chắt không được hưởng, lại để cho người khác hưởng. Từ đó bảo tồn được truyền thống và đạo lí trong quan hệ thừa kế giữa những người thân thuộc nhất của người để lại di sản với chính họ đã và đang được thừa nhận ở Việt Nam.
Theo quy định ở điều 679 BLDS thì con riêng của một trong hai vợ chồng với cha dượng, mẹ kế nếu vẫn có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế theo pháp luật của nhau và các con của họ cũng được thừa kế thế vị theo điều 677. Nghĩa là trong gia đình không có sự phân biệt đối xử giữa con chung và con riêng, cha dượng, mẹ kế coi con riêng của vợ, chồng mình như con ruột và ngược lại. Vậy là thừa kế thế vị không những chỉ phát sinh giữa những người có quan hệ huyết thống mà còn giữa những người có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau. Sự thể hiện nghĩa vụ dù theo luật định hay là tự nguyện giữa cha dượng, mẹ kế với con riêng của vợ, chồng là nguyên nhân cho họ được thừa kế theo pháp luật của nhau, đồng thời là căn cứ để xác định thừa kế thế vị cho những người con của con riêng vợ, chồng. Quy định này đã khẳng định tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam, giáo dục tình thân ái trong quan hệ giữa các thành viên trong gia đình dù giữa họ có quan hệ huyết thống hay không. Nó phù hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
IV. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLDS về thừa kế theo pháp luật
Cùng với thời gian, BLDS đã có những bước tiến đánh dấu sự phát triển của pháp luật thừa kế như sau:
·        Các quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật đóng vai trò quan trọng trong chuỗi các quan hệ tài sản mà quan hệ thừa kế theo pháp luật là một mắt xích không thể thiếu trong đó.
·        Việc diện thừa kế theo pháp luật có sự mở rộng theo số lượng hàng thừa kế theo pháp luật và thừa kế thế vị sẽ đảm bảo cho việc chia di sản thừa kế của công dân được thực hiện một cách triệt để nhất, làm cho việc áp dụng pháp luật trở nên hiệu quả và có tính thuyết phục hơn. Đây cũng là căn cứ bảo vệ vững chắc cho quyền sở hữu cũng như quyền thừa kế của công dân phù hợp với đạo đức và truyền thống xã hội. Nó loại bỏ những sự áp đặt thiếu khách quan, không phù hợp và thiếu toàn diện của các bộ luật trước đó.
·        Tạo nên sự chủ động cho các cơ quan xét xử trong quá trình ứng dụng các quy phạm pháp luật của BLDS.
Tuy nhiên thì những quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2005 về thừa kế theo pháp luật vẫn còn một số điểm vướng mắc.
·        Ở hàng thừa kế thứ hai cháu chỉ được thừa kế của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại khi ở hàng thừa kế thứ nhất chỉ có một người thừa kế là cha đẻ (mẹ đẻ) bị mất quyền hưởng di sản hoặc có nhiều người thừa kế nhưng tất cả đều không có quyền hưởng di sản hoặc không nhận di sản, thì cháu cùng với anh chị em ruột của người chết sẽ được hưởng di sản của ông bà. Trên thực tế trường hợp này rất khó xảy ra. Mặt khác, quan hệ giữa cháu  với ông, bà là quan hệ huyết thống trực hệ và nếu xét về quan hệ gia đình truyền thống thì giữa ông, bà và cháu là một gia đình, cháu phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng thờ cúng ông bà, cho nên cháu cần được hưởng di sản trước anh chị em ruột của người chết. Trường hợp không có cháu hoặc chắt thì anh chị em ruột được hưởng di sản của người chết. Cho nên, nên cấu trúc lại Điều 676 về người thừa kế theo pháp luật. Nên chia hàng thứ hai làm hai hàng. Lúc đó, hàng 1 gồm: cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Hàng 2 gồm: cháu gọi người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Hàng 3 gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh, chị, em ruột của người chết. Hàng 4 là các trường hợp còn lại.
·        Khoản 3 Điều 676 Bộ luật dân sự quy định những người thừa kế hàng sau chỉ được hưởng di sản nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước. Quy định này mâu thuẫn với Điều 677 là cháu thừa kế thế vị khi bố hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, vì vậy nếu cháu thế vị thì hàng thứ hai hoặc thứ ba không được hưởng di sản.
·        Tại hàng thừa kế thứ hai, gồm những người có quan hệ huyết thống trực hệ bề trên và bề dưới với người để lại di sản là ông, bà nội, ngoại. Những người có quan hệ huyết thống bàng hệ là anh, chị, em ruột của người để lại di sản. Theo quy định của pháp luật thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại được thừa kế của cháu ruột, và ngược lại cháu ruột được thừa kế của ông bà. Việc quy định như vậy đã làm rắc rối thêm cho việc giải quyết liên quan đến việc hưởng di sản thừa kế theo hàng thừa kế thứ hai. Bởi vì, cháu đã được thừa kế thế vị tại điều 677 BLDS, do vậy không nên quy định các cháu nội, ngoại của người để lại di sản trong hàng thừa kế thứ hai. Tại hàng thừa kế thứ ba, cũng tương tự như vậy với chắt và cụ nội, cụ ngoại.
·        Đối với điều 679 BLDS, nên có tiêu chí xác định thế nào là quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế. Thống nhất về các căn cứ đánh giá như: thời gian nuôi dưỡng, mức độ nuôi dưỡng “như cha con, mẹ con” để làm cụ thể rõ ràng hơn cho người áp dụng pháp luật và tòa án.
·        Trong trường hợp con hoặc cháu là người thừa kế của cha mẹ, ông bà và chết cùng thời điểm với cha mẹ, ông bà nhưng khi còn sống họ đã bị kết án về một trong những hành vi quy định tại khoản 1 điểu 643 BLDS, vẫn chưa có quy định nào về việc cháu hoặc chắt của người để lại di sản có được hưởng thừa kế thế vị hay không. Bởi vì, cháu chắt rõ ràng là không có lỗi và cũng không phải chịu bất kì một trách nhiệm nào về hành vi của cha mẹ mình. Do đó cần có quy định cụ thể về việc này, tốt nhất là để những người thừa kế thế vị vẫn được hưởng thừa kế.
·        Trường hợp người thừa kế được sinh ra theo phương pháp khoa học hiện đại như thụ tinh nhân tạo. Trong xã hội hiện nay, đây cũng là một trường hợp không hiếm có. Vì vầy BLDS cần bổ sung về vấn đề này một cách cụ thể để đảm bảo quyền lợi cho những đứa trẻ được sinh ra theo phương pháp này.
KẾT
Thừa kế là một quan hệ pháp luật phổ biến trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, khi số lượng và giá trị tài sản của cá nhân ngày càng đa dạng, phong phú thì vấn đề thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp. Tuy nhiên, pháp luật thừa kế vẫn không dự liệu được tất cả các trường hợp xảy ra trên thực tiễn bởi sự phát triển không có điểm dừng của khoa học và xã hội Do vậy, các nhà làm luật cần nghiên cứu thật kĩ để giải quyết những vấn đề liên quan đến thừa kế, điều chỉnh những quy định về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng để đảm bảo quyền lợi của công dân khi xảy ra tranh chấp.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Giáo trình Luật dân sự Việt Nam 2013 tập I – Trường Đại học Luật Hà Nội – NXB Công an nhân dân
2.     Bộ luật Dân sự 2005
3.     Luật Hôn nhân và gia đình 2000
4.     Luật nuôi con nuôi 2010
5.     Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thừa kế số 02/HDTP 1990
6.     Luật Thừa kế Việt Nam (sách chuyên khảo) – Phùng Trung Tập
7.     Thừa kế - Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng – Phạm Văn Tuyết
8.     Internet













Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét