Mục lục

1. Hủ nữ xuyên tiên hiệp

Chương 1

Chương 2

Chương 3

Thứ Năm, 21 tháng 11, 2013

Tư tưởng Hồ Chí Minh - lớn

         LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan, đáp ứng những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX tới nay. Đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa, nhân nghĩa và thực tiễn cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn có ý nghĩa thời đại, nó có giá trị hết sức to lớn trong thời đại hiện nay.
Chính vì thế mà việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết. Muốn nghiên cứu được một cách sâu sắc và toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh thì ta cần tìm hiểu rõ được điều kiện lịch sử - xã hội hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG
I. Nhận thức chung về tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một “khái niệm” khoa học, định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh cần được trình bày một cách cô đọng, chặt chẽ, ở cấp độ lý luận nhằm phản ánh được bản chất và nội dung cốt lõi của nó. Do đó, có thể định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống tư tưởng, quan điểm cơ bản phản ánh sâu sắc thực tiễn cách mạng Việt Nam, cách mạng thuộc địa, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tinh hoa văn hoá dân tộc, trí tuệ nhân loại, nhằm giải phóng dân tộc, giai cấp, con người.
II. Điều kiện lịch sử - xã hội
Điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh gồm có tình hình xã hội Việt Nam thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, quê hương và gia đình và cuối cùng là thời đại.
1.     Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
a)     Trong suốt thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến bảo thủ và phản động.
Trong suốt thế kỷ XIX, giai cấp phong kiến triều Nguyễn vẫn nắm giữ quyền lực nhà nước và duy trì thực hiện những chính sách mà mình đã đặt ra trước đó. Chính yếu tố này đã kìm hãm sự phát triển và hội nhập của đất nước với bên ngoài. Triều đình thi hành chính sách áp bức bóc lột ở bên trong và bế quan tỏa cảng đối với bên ngoài, không tạo ra cơ hội để dân tộc tiếp xúc và bắt nhịp với thế giới văn minh. Giai cấp cầm quyền vẫn tiếp tục coi nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trì trệ là chủ yếu, về văn hóa thì nặng nề về tư tưởng Nho giáo từ vua cho đến quan lại và dẫn đến ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống của nhân dân; về cơ cấu xã hội thì vẫn giữ nguyên cơ cấu xã hội cũ, truyền thống: nhà - làng - nước; xã hội nghèo đói, ngu muội, tăm tối nhưng chúng không mở trường đào tạo khoa học kỹ thuật, kinh tế và cự tuyệt mọi đề án cải cách, canh tân của nhiều nhà tư tưởng đương thời. Trong lúc bấy giờ, xã hội Việt Nam có một số nhà tư tưởng tiêu biểu như Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch…đã thực hiện một bước chuyển tư tưởng chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn. Họ đưa ra từ “canh tân đổi mới nhà nước” đến “canh tân đổi mới tác chiến”, nhưng đều bị triều Nguyễn cự tuyệt. Tất cả những yếu tố trên đã thể hiện được sự “bảo thủ” của xã hội phong kiến Việt Nam trong suốt thế kỷ XIX. Chính vì lý do này mà nhà Nguyễn đã không thể chú trọng thực hiện việc chuẩn bi tiềm lực vật chất, tinh thần, thế mạnh của dân tộc để có đủ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, chống lại kẻ thù bên ngoài. Vì thế đã không phát huy được thế mạnh của dân tộc và đất nước để rồi cuối cùng rơi vào cảnh mất nước.
Nói như vậy để ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng việc chúng ta mất nước không phải là một định mệnh lịch sử. Trong quá khứ chúng ta đã từng đánh đuổi rất nhiều kẻ thù hùng mạnh bằng lòng yêu nước, tri thức đánh giặc, giữ nước vốn có. Rơi vào cảnh mất nước này, trách nhiệm trước hết thuộc về bọn vua chúa nhà Nguyễn, vì chúng trong thì sợ nhân dân, ngoài thì bạc nhược trước kẻ thù, cam chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của hoàng tộc. Lúc đầu thì phe “chủ chiến” có chống cự yếu ớt, nhưng sau khi thực dân Pháp bắn đại bác vào Đà Nẵng thì lại “chủ hòa”, từng bước nhân nhượng, cầu hòa; cuối cùng là cam chịu đầu hàng, đồng ý thương lượng chia cắt một số tỉnh hiến dâng cho giặc.
b)    Những khuynh hướng hành động chủ yếu trong xã hội Việt Nam sau khi Pháp xâm lược nước ta
Sau khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta, triều đình phong kiến đã từng bước nhượng bộ, đi từ quan điểm chủ chiến đến quan điểm chủ hòa và đi đến việc “cam tâm đầu hàng”, cam chịu làm nô lệ cho kẻ thù. Triều Nguyễn có lẽ là có tinh thần yêu nước, song chỉ là chủ nghĩa yêu nước không chân chính. Bởi vì giai cấp thống trị đã vì lợi ích của chúng mà bán rẻ lợi ích đất nước, cam chịu đầu hàng để mưu giữ lấy quyền lực và lợi ích riêng của chúng.
Ngược lại, những phong trào tự vũ trang kháng chiến chống thực dân Pháp của quần chúng nhân dân lần lượt xuất hiện và lan rộng khắp cả nước.  Ghi lại những trang sử vẻ vang của dân tộc, ở Nam Bộ có Trương Định, Nguyễn Trung Trực…; ở Trung Bộ có Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng…; ở Bắc Bộ có Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích… Tuy nhiên, những phong trào này, cuối cùng cũng đều đi đến thất bại. Bởi lẽ chúng vẫn chưa có đường lối kháng chiến rõ ràng, lãnh đạo kháng chiến là các sĩ phu mang nặng ý thức hệ phong kiến, nặng tư tưởng tôn quân, chưa thực sự tin vào lực lượng của nhân dân. Như vậy, hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ rõ được sự bất lực trước nhiệm vụ lịch sử mà đất nước đặt ra. Tuy vậy, những phong trào kháng chiến vũ trang này cũng đã làm rạng rỡ truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc. Ở đây, ta có thể thấy rằng: chủ nghĩa yêu nước của họ là chân chính bởi vì họ đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì quê hương, đất nước mình.
c)     Những thay đổi của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX
Đầu thế kỷ XX, sau khi đàn áp các cuộc nổi dậy, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa, xã hội Việt Nam bắt đầu có sự phân hóa. Giai cấp công nhân, giai cấp tư sản, tiểu tư sản xuất hiện. Bên cạnh đó “Tân thư”, “Tân văn”..., cùng với các cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu…đã ảnh hưởng trực tiếp vào Việt Nam. Chúng là những yếu tố bên ngoài du nhập vào Việt Nam thông qua con đường Hán Việt. Nếu như sự ra đời của giai cấp công nhân và giai cấp tư sản được coi là yếu tố thực tiễn thì “Tân thư”, “Tân văn” được coi là yếu tố lý luận trong sự xuất hiện yếu tố mới mẻ nhất của xã hội Việt Nam ở đầu thế kỷ XX.
Dưới tác động của những nhân tố mới, các phong trào yêu nước Việt Nam chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản như phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục Hội,…Chúng cũng đã ghi thêm những trang sử vẻ vang của dân tộc, song cuối cùng cũng lại thất bại, vì còn gắn với hệ tư tưởng tư sản. Hệ tư tưởng tư sản lúc này đã trở nên lỗi thời và lạc hậu ở phương Tây, hơn nữa lại được các sĩ phu phong kiến truyền bá nên còn nhiều hạn chế và bất lực trước những nhiệm vụ lịch sử của đất nước. Có thể nói rằng, các phong trào cứu nước đầu thế kỷ XX đã rơi vào tình trạng khó khăn, bế tắc nhất, tưởng chừng như không có đường ra. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng của (2-1997); cuộc biểu tình chống thế ở Huế và miền Trung bị đàn áp đẫm máu (4-1908); vụ Hà Thành đầu độc bị thất bại (6-1908)… Từ việc tìm hiểu và phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra được một kết luận rằng: hệ tư tưởng phong kiến cũng như hệ tư tưởng tư sản không thể đáp ứng kịp thời nhiệm vụ lịch sử giành lại độc lập cho dân tộc và được chứng minh bằng sự thất bại của những phong trào theo hệ tư tưởng này,  không phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam. Điều đó cho thấy phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng lợi phải đi theo một con đường cách mạng mới. Trước tình cảnh ấy, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, từng bước hình thành tư tưởng của mình, đáp ứng những đòi hỏi bức xúc của dân tộc. Có thể nói rằng, đây chính là điều kiện quan trọng cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh được đặt ra trước tình hình, hiện trạng xã hội Việt Nam thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
2.     Ảnh hưởng của yếu tố quê hương và gia đình
a)     Quê hương
Vào thời kỳ đó trên quê hương Nghệ Tĩnh, Nguyễn Tất Thành được sinh ra trong một gia đình nhà Nho giàu truyền thống yêu nước và trưởng thành trong phong trào quần chúng giàu truyền thống cách mạng. Đây là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Nơi đây đã nuôi dưỡng nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam như: Mai Thúc Loan, Đặng Dung, Nguyễn Biểu, các lãnh tụ yêu nước cận đại như: Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu...và biết bao con người ưu tú khác của dân tộc Việt Nam. Từ nhỏ Hồ Chí Minh đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp bóc lột đến cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương. Những tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn hèn, bạc nhược của bọn quan lại nhà Nguyễn đã thôi thúc Người ra đi tìm một con đường cách mạng mới để cứu dân, cứu nước. Người kế thừa từ các bậc tiền bối tư tưởng yêu nước, thương dân, gắn bó với dân và lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi hoạt động chính trị - xã hội của mình.
b)    Gia đình
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân dân. Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, lao động cần cù, có ý chí kiên cường, vượt qua gian khổ. Chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị - xã hội của cụ Phó bảng Sắc đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với sự hình thành tư tưởng chính trị và nhân cách của Hồ Chí Minh. Tiếp thu tư tưởng trên của người cha, sau này Hồ Chí Minh đã nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của mình. Niềm tin, lòng yêu nước của cụ Sắc thắp sáng và thôi thúc chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm thấy con đường giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
c)     Kinh nghiệm
Những bài học kinh nghiệm của những nhà yêu nước tiền bối đương thời cũng có tác động không nhỏ tới Hồ Chí Minh. Chúng đã ảnh hưởng đến  lý tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh ngay từ đầu và theo suốt quá trình cách mạng. Bằng trực giác, Người nhận thấy rằng muốn cứu nước, giải phóng dân tộc thì không thể đi theo con đường các bậc tiền bối đã đi, mà cần phải tìm ra một con đường mới. Người đã quyết định đi Pháp đến các nước khác để tìm hiểu xem những gì ẩn chứa sau các từ “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái” mà người Pháp mang vào Việt Nam, và cái cốt là xem họ làm cách mạng như thế nào rồi trở về giúp đồng bào mình làm cách mạng.
3.     Điều kiện thời đại
Thế giới trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX cũng đang có những biến chuyển to lớn. Nguyễn Ái Quốc bước lên vũ đài chính trị vào lúc mà chủ nghĩa tư bản đã từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, tức chủ nghĩa đế quốc đã xác lập được sự thống trị của chúng trên phạm vi thế giới. Chủ nghĩa đế quốc là một hiện tượng quốc tế, một hệ thống thế giới , chúng vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ yếu tròn vòng kìm kẹp thuộc địa của chúng. Bởi vậy, cuộc đấu tranh giải phóng thuộc địa đã trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc thực dân gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế.
Khi còn ở trong nước, Hồ Chí Minh tuy chưa nhận thức được đặc điểm của thời đại, nhưng từ thực tế lịch sử của đất nước Người thấy rằng con đường của các bậc cha anh không đem lại kết quả, cần có một con đường mới. Trong khoảng 10 năm, Hồ Chí Minh đã vượt ba đại dương, bốn châu lục, đặt chân lên khoảng gần 30 nước. Nhờ đó, Người đã hiểu được bản chất chung của chủ nghĩa đế quốc và hoàn cảnh chung của các nước thuộc địa cùng cảnh ngộ trên thế giới.
Khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở về Pháp. Người nhanh chóng đến được với phái tả của cách mạng Pháp và gia nhập Đảng Xã hội Pháp năm 1919 - một chính đảng duy nhất ở Pháp lúc bấy giờ bảo vệ, tỏ sự đồng tình với cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa bị áp bức, bóc lột. Nhân dịp Hội nghị hòa bình được tổ chức tại Vecxay, Nguyễn Ái Quốc đã ký tên và gửi tới hội nghị Yêu sách của nhân dân An Nam với mong muốn được giúp đỡ để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Nhưng bản yêu sách này đã không được chấp nhận. Qua sự kiện này, Người đã nhận rõ bản chất giả dối của chủ nghĩa đế quốc và rút ra được bài học là muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân mình, vào lực lượng của mình.
Vào thời gian đó, Cách mạng Tháng Mười năm 1917 ở Nga thành công, tháng 3 năm 1919 V.I.Lê nin thành lập Quốc tế III thay thế Quốc tế II và Nhà nước Xô Viết non trẻ đánh bại cuộc chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc vào nước Nga, đồng thời giải quyết xong vấn đề nội chiến. Cán cân chính trị bắt đầu có lợi cho phe vô sản. Những sự kiện vĩ đại này đã làm cho bầu không khí chính trị ở các nước Châu Âu trở nên sôi động, nhất là trong Đảng Xã hội Pháp. Chính những sự kiện đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình nhận thức và chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc.
Trong một cuộc họp, Nguyễn Ái Quốc được một đồng chí đưa cho đọc “ Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lê nin đăng trên báo Nhân đạo. Khi đọc bản Luận cương này. Người nói: “Luận cương của Lê nin làm cho tôi rất cảm động , phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biếtt bao? Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “ Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng của chúng ta!””. Người biểu quyết tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của VI. Lênin đã giúp Người tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và đánh dấu bước chuyển căn bản trong tư tưởng của Người - từ lập trường dân tộc sang lập trường giai cấp, từ một người yêu nước thành một người cộng sản.
KẾT
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ giữa trí tuệ lớn Hồ Chí Minh với trí tuệ của dân tộc và trí tuệ thời đại, là tài sản tinh thần và trí tuệ vô giá của dân tộc ta và là ngọn đuốc soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng trong suốt hơn 70 năm qua. Tư tưởng đó là một động lực lớn của nhân dân ta trong cuộc hành trình mới xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, ấm no, hạnh phúc, văn minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng giống như tư tưởng của nhiều vĩ nhân khác được hình thành dưới tác động, ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử-xã hội nhất định của dân tộc và thời đại mà nhà tư tưởng đã sống. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan và là sự giải đáp thiên tài của Hồ Chí Minh về những nhu cầu bức thiết đó của cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX tới ngày nay.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh - Hội đồng chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003
  2. Tư tưởng Hồ Chí Minh – Một số nhận thức cơ bản - Nguyễn Mạnh Tường - Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009
  3. Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh (Hỏi – đáp) – Nxb Giáo dục
  4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1 – Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000
  5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10 – Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000
  6. http://thehehochiminh.wordpress.com/2009/12/15/ledoanta_dknguongochinhthanh_tthcm/
  7. http://ebook.ringring.vn/chi-tiet/phan-tich-dieu-kien-lich-su-xa-hoi-hinh-thanh-tu-tuong-ho-chi-minh-8-diem/85/23324.html
  8. http://kenhdaihoc.com/forum/threads/23572-Trinh-bay-dieu-kien-lich-su-xa-hoi-tac-dong-den-qua-trinh-hinh-thanh-va-phat-trien-tu-tuong-Ho-Chi-Minh.kdh
  9. http://timtailieu.vn/tai-lieu/dieu-kien-lich-su-xa-hoi-anh-huong-den-su-hinh-thanh-va-phat-trien-tu-tuong-ho-chi-minh-7101/
  10. http://www.wattpad.com/3664524-câu-1-phân-tích-cơ-sở-hình-thành-tư-tưởng-hcm
  11. http://www.zun.vn/tai-lieu/de-cuong-on-tap-mon-tu-tuong-ho-chi-minh-5186/






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét